Nước ta đã thành công trong việc tạo ra hàng trăm giống cây trồng mới nhờ áp dụng các quy luật di truyền – biến dị và sử dụng các kĩ thuật phân tử và tế bào. Các phương pháp này đã giúp rút ngắn thời gian tạo ra giống mới và mang lại những đặc tính đáng giá mà phương pháp chọn giống truyền thống chưa thể đạt được.

Gây đột biến nhân tạo

Contents

Đối với lúa, việc chọn lọc cá thể đột biến đã tạo ra các giống lúa có tiềm năng năng suất cao như siống lúa DT10, tài nguyên đột biến, nếp thơm TK106, và các loại lúa tẻ cho gạo có mùi thơm như tám thơm đột biến (năm 2000), gạo cho cơm dẻo và ngon như KML-g, DT33, VLD95_19.

Đối với đậu tương, giống đậu tương DT55 (năm 2000) được tạo ra bằng xử lí đột biến giống đậu tương DT74 có thời gian sinh trưởng rất ngắn, chống đổ và chịu rét khá tốt, hạt to, màu vàng.

Đối với lạc, giống lạc V79 được tạo ra bằng chiếu xạ tia X vào hạt giống lạc bạch sa sinh trưởng khoẻ, hạt to trung bình và đểu, vỏ quả dễ bóc, tỉ lệ nhân/quả đạt 74%, hàm lượng prôtêin cao (24%), tì lệ dầu đạt 24%.

Giống cà chua hồng lan được tạo ra từ thể đột biến tự nhiên của giống cà chua Ba Lan trắng.

Lai hữu tính và xử lí đột biến cũng là một phương pháp được sử dụng. Giống lúa A20 (năm 1994) được tạo ra bằng lai giữa hai dòng đột biến H20xH30. Giống lúa DT16 (năm 2000) được tạo ra bằng lai giữa giống DT10 với giống lúa đột biến A7q-. Giống lúa DT21 (năm 2000) được tạo ra bằng lai giữa giống lúa nếp 415 với giống lúa đột biến ĐV2 (từ giống lúa Nếp cái hoa vàng). Giống lúa Xuân số 10 là kết quả xử lí bằng hoá chất DMS 0,02% ở đời F1 của tổ hợp lai kép (NN8/Xuân/Pelital), cho năng suất 61.8 tạ/ha.

Chọn giống bằng chọn dòng tế bào xôma có biển dị hoặc đột biến xôma cũng là một phương pháp hiệu quả. Giống lúa DR2 (năm 2000) được tạo ra từ dòng tế bào xôma biến dị của giống CR203. Giống lúa DR-, có độ đồng đều rất cao, chịu khô hạn tốt, năng suất trung bình đạt 45 – 50 tạ/ha. Giống táo đào vàng (năm 1998) được tạo ra bằng xử lí đột biến đinh sinh trưởng cây non của giống táo Gia Lộc. Cho quả to, mã quà đẹp, có màu vàng da cam, ăn giòn, ngọt và có vị thơm đặc trưng, năng suất đạt 40 – 45 tấn lia ở năm thứ 3.

Lai hữu tính đế tạo biến dị tổ hợp hoặc chọn lọc cá thể từ các giống hiện có

Người ta đã lai giống lúa DT10 có tiềm năng năng suất cao với giống lúa OMgo có hạt gạo dài, trong, cho cơm dẻo để tạo ra giống lúa DT17 phối hợp được những ưu điếm của hai giống lúa trên. Giống cà chua P375 (năm 1990) được tạo ra bằng phương pháp chọn lọc cá thể từ giống cà chua Đài Loan, thích hợp cho vùng thâm canh. Giống lúa CR203 (năm 1985) được tạo ra bằng phương pháp chọn lọc cá thể từ nguồn gen lúa kháng rầy nâu nhập từ Viện lúa Quốc tế, có khả năng kháng rầy, năng suất cao, trung bình đạt 45 – 50 tạ/ha, thâm canh tốt có thể đạt tới 65 tạ/ha. Giống đậu tương AK02 (năm 1987) được tạo ra bằng phương pháp chọn lọc cá thể từ giống đậu tương vàng Mường Khương.

Tạo giống ưu thế lai (ở F1)

Ngô lai là một tiến bộ kĩ thuật nổi bật của thế kỷ XX. Người ta đã tạo dòng tự thụ phấn (dòng thuần), thử khả năng lai với các dòng thuần khác, xác định tổ hợp lai ưu tú và sản xuất thử, rồi giới thiệu cho sản xuất. Giống ngô lai LVN10 thuộc nhóm giống ngô dài ngày là được tạo ra do lai giữa 2 dòng thuần (lai đơn), vụ xuân có thời gian sinh trưởng là 125 ngày, chịu hạn, chống đổ và kháng sâu bệnh tốt, có thể đạt năng suất 8-12 tấn/ha. Cùng nhóm còn có giống LVN98 và HQ2000. Giống ngô lai LVN4 đại diện cho nhóm trung ngày, khả năng thích ứng rộng, có thể đạt 8 – 10 tấn/ha, thuộc nhóm này còn có các giống LVN12 và LVN31 (giống lai kép). Giống ngô lai LVN20 là giống lai đơn ngắn ngày, chống đổ tốt, thích hợp với vụ đông xuân trên chân đất lầy thụt, có thể đạt 6 – 8 tấn/ha. Cùng nhóm còn có các giống LVN24, LVN25. Các nhà chọn giống cây trồng ở nước ta đã tạo được một số giống lúa lai (F1) có “năng suất cao, chất lượng đảm bảo, góp phần tăng sản lượng gạo và tiết kiệm ngoại tệ nhập giống.

Tạo giống đa bội thể

Giống dâu số 12 là giống dâu tam bội (3n), được tạo ra do lai giữa thể tứ bội (tạo ra từ giống dâu Bắc Ninh) với giống lưỡng bội (2n). Giống dâu số 12 có bản lá dày, màu xanh đậm, thịt lá nhiều, sức ra rễ và tỉ lệ còn sống cao. Năng suất bình quân 29,7 tấn/ha/năm. Trong điều kiện thâm canh có thể đạt 40 tấn/ha/năm.

Với những thành tựu trong việc chọn giống cây trồng, nước ta đang tạo ra những giống cây mới có năng suất cao, chất lượng đảm bảo, và góp phần tăng sản lượng nông nghiệp.

Rate this post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *